PHÂN BIỆT GIỮA TỘI CƯỚP TÀI SẢN & TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN:
Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
Người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
PHÂN TÍCH VỀ CĂN CỨ PHÁP LÝ:
Điều 168. Tội cướp tài sản
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
h) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
c) Làm chết người;
d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Điều 170. Tội cưỡng đoạt tài sản
1. Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Sự giống nhau giữa tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản
Tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản có những điểm giống nhau cơ bản về mặt khách thể, mặt chủ quan, chủ thể, cấu thành tội phạm.
(i) Về mặt khách thể của tội phạm: Cả hai tội đều xâm phạm đến quyền sở hữu của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Đồng thời, xâm phạm đến quyền nhân thân (vì có thực hiện hành vi tác động đến người đang quản lý tài sản).
(ii) Về mặt chủ quan của tội phạm: Đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp và đều có mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.
(iv) Về chủ thể của tội phạm: Bất kỳ người nào thực hiện hành vi phạm tội, khi họ có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo quy định (Từ đủ 14 tuổi trở lên) thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên đối với cưỡng đoạt tài sản phải là phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng (có hành vi phạm tội theo quy định tại khoản 2, 3, 4 của Điều 170) thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự; nếu tội phạm nghiêm trọng bị truy cứu theo khoản 1 thì chỉ người từ đủ 16 tuổi mới chịu trách nhiệm HS.
Sự khác nhau giữa tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản
Tội cướp tài sản: Biểu hiện đặc trưng của tội cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Ví dụ: A kề dao vào cổ B yêu cầu B đưa toàn bộ tiền và các tài sản có giá trị khác trên người B cho A và đe dọa nếu không đưa A sẽ giết B.
Biểu hiện của tội cưỡng đoạt tài sản là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người bị hại, buộc họ phải giao tài sản, nếu không giao thì họ sẽ bị áp dụng những biện pháp như đã đe dọa. Ví dụ: A đe dọa B là sẽ giết B nếu trong vòng 1 tuần B không đưa cho A đủ 1 tỷ.
Đối với tội cướp tài sản, hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc hành vi khác là ngay tức khắc, làm cho người bị đe dọa thấy rằng nguy hiểm sẽ xảy ra ngay và họ không thể tránh khỏi nếu không giao tài sản. Người bị đe dọa không có điều kiện để suy nghĩ, cân nhắc hay tìm biện pháp ngăn chặn đối với hành vi mà người phạm tội đang đe dọa, sức mãnh liệt của sự đe dọa làm cho y chí chống cự của người bị đe dọa tê liệt.
Đối với tội cưỡng đoạt tài sản, hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc hành vi khác là tại một thời điểm trong tương lai, không có nguy cơ xảy ra ngay. Trong trường hợp này, người bị đe dọa vẫn có một khoảng thời gian để cân nhắc, suy nghĩ, tìm biện pháp ngăn chặn. Vì vậy, tội cưỡng đoạt tài sản không có tính chất nguy hiểm bằng tội cướp tài sản.
Một người đang có hành vi của tội cưỡng đoạt tài sản có thể chuyển hóa sang tội cướp tài sản khi mục đích cưỡng đoạt của họ không đạt được và họ có những hành vi đe dọa ngay tức khắc đối với người bị hại. Ví dụ: B là người đồng tính, B che giấu giới tính thật của mình và luôn thể hiện mình là giới tính nam. A biết điều đó nên đe dọa B sẽ công khai giới tính thật của B cho mọi người biết nếu trong vòng 1 tuần B không chuyển cho A số tiền 100.000.000 đồng. Sau 1 tuần B không đưa tiền cho A, A đến gặp B, kề dao vào cổ B yêu cầu B chuyển tiền vào tài khoản của mình. Trường hợp này, A sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản mặc dù hành vi ban đầu của A là biểu hiện của tội cưỡng đoạt tài sản.
Điểm khác nhau giữa tội cưỡng đoạt tài sản và tội cướp tài sản (Điều 168 Bộ luật Hình sự): Tội cưỡng đoạt tài sản và tội cướp tài sản đều có hành vi đe dọa dùng vũ lực. Tuy nhiên, đe dọa ở tội cướp là đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc còn đe dọa ở tội cưỡng đoạt là đe dọa sẽ dùng vũ lực. Hành vi đe dọa dùng vũ lực ở tội cướp tài sản có tính chất mãnh liệt là làm cho người bị đe dọa thấy rằng vũ lực sẽ xảy ra ngay, họ không hoặc khó có điều kiện tránh khỏi. Sự đe dọa đã làm ý chí của người bị đe dọa tê liệt giữa hành vi đe dọa và việc dùng vũ lực ở tội cưỡng đoạt tài sản có khoảng cách về thời gian. Sức mãnh liệt của sự đe dọa chưa đến mức có thể làm tê liệt ý chí chống cự của người bị đe dọa mà chỉ có khả năng khống chế ý chí của họ. Người bị đe dọa còn có điều kiện suy nghĩ, cân nhắc để quyết định hành động.
Liên hệ luật sư để tư vấn thêm:
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ LIÊN PHƯƠNG
Địa chỉ: 9/8 Phạm Văn Hai, Phường 01, Quận Tân Bình, TPHCM
Điện thoại: (028)-38 47 69 45
ĐƯỜNG DÂY NÓNG: 0971.130.768 – 0909.700.257
(Tư vấn qua đường dây nóng từ 8 giờ đến 22 giờ hàng ngày kể cả Thứ Bảy, Chủ Nhật)